QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


I. Điều kiện tự nhiên
Huyện Ia Grai được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11-11-1996 của Chính phủ, trên cơ sở chia tách từ phần đất tây nam của huyện Chư Păh.
Diện tích: 1122,29 Km2.
Dân số:  105.350  người (số liệu thống kê năm 2019), trong đó đồng bào dân tộc thiểu số, chủ yếu là Jrai chiếm hơn 50%.
Vị trí địa lý:
Ia Grai là một huyện nằm về phía Tây của tỉnh Gia Lai. Huyện lỵ là thị trấn Ia Kha.
- Bắc giáp: huyện Chư Păh.
- Nam giáp: huyện Đức Cơ.
- Đông giáp: thành phố Pleiku, huyện Chư Prông.
- Tây Bắc giáp : huyện Ia H'Drai, tỉnh Kon Tum
- PhíaTây giáp: huyện Đôn Mia,tỉnh Ratarakiri Cam Pu Chia (12 km).
Trên địa bàn huyện Ia Grai có một số điểm du lịch sinh thái (du lịch sinh thái lòng hồ Sê San, Thác Mơ, Thác Chín Tầng....). Tổ chức lễ hội truyền thống (đua thuyền độc mộc trên sông Pôcô.....). Thu hút hàng ngàn khách du lịch tham quan, lễ hội và du lịch sinh thái..
Đơn vị hành chính cấp xã, trị trấn: 13 (1 thị trấn, 12 xã).
- Thị trấn: Ia Kha.
- Các xã: Ia Chía, Ia Dêr, Ia Hrung, Ia Bă, Ia Krai, Ia O, Ia Pếch, Ia Sao, Ia Tô, Ia Yok, Ia Grăng, Ia Khai.

II. Phát triển Kinh tế - văn hóa - xã hội
Tổng quan kinh tế - văn hoá - xã hội:

 

ubnd-huyen-Iagrai-(2).jpg
Trụ sở UBND huyện IaGrai.

Trong 5 năm qua, giai đoạn 2016-2020, huyện Ia Grai đã đạt được những thành tựu quan trọng. Giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2025 xuống còn 1,14% (theo chuẩn nghèo đa chiều áp dụng giai đoạn 2016 - 2020).  Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư chuyển dịch đúng hướng. Lĩnh vực văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực. Quốc phòng - an ninh được củng cố.  
Trên lĩnh vực kinh tế, thu nhập bình quân đầu người đạt 40,2 triệu đồng, tăng 16,6 triệu/người so với đầu nhiệm kỳ, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 11%/năm. Trong đó, nông - lâm nghiệp tăng 7%/năm, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp- xây dựng tăng 10%/năm, thương mại - dịch vụ tăng 20%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 40,2 triệu đồng.Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn giai đoạn 2015 - 2020 là 4.848,5 tỷ đồng, trung bình mỗi năm đạt 969,7 tỷ đồng.
 Trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của huyện, thu hút nguồn vốn đầu tư trên địa bàn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất điện năng, sản phẩm nông sản, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thực hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn theo hướng mở rộng ngành nghề, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, các cơ sở khai thác chế biến khoáng sản tăng lên cả qui mô và số lượng góp phần tăng nhanh giá trị tổng sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.

Giá trị sản xuất của ngành Công nghiệp xây dựng ước năm 2020 là 2.234 tỷ đồng tăng 31% so với đầu nhiệm kỳ. Các sản phẩm chủ yếu năm 2020 như: Xay xát lương thực 23.704 tấn, tăng 5,1% so với đầu nhiệm kỳ; đá xây dựng 300m3; sản phẩm cơ khí 392 tấn (tăng 30% so với đầu nhiệm kỳ); hàng mộc 546 m3 (tăng  9,2% so với đầu nhiệm kỳ); điện thương phẩm 2.639 triệu KWh,(tăng 38,5% so với đầu nhiệm kỳ); phân vi sinh 36765 tấn, (tăng 5% so với đầu nhiệm kỳ)..

Tổng diện tích các loại cây trồng tính đến cuối năm 2020: 48.730 ha. Tăng thêm 250 ha so với năm 2016 (chủ yếu tăng thêm diện tích cây công nghiệp dài ngày điều, cà phê…).

Cây lương thực và cây hàng năm: Đã duy trì ổn định, có mở rộng tăng thêm diện tích ngô, sắn, rau màu các loại;  Lúa nước đến nay đã phát triển 2.400 ha, đạt 96% chỉ tiêu Nghị quyết. Nguyên nhân không đạt chỉ tiêu: nhân dân chưa có nhu cầu mở rộng diện tích lúa nước trong các năm qua, sản xuất lúa cho lợi nhuận không cao bằng các cây trồng khác, một số diện tích thường bị hạn, sản xuất cho năng suất thấp nên dân không đưa vào sản xuất.

Thời gian qua nhờ đầu tư kiên cố hệ thống công trình thủy lợi, hỗ trợ giống, phân  bón các loại, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp kỹ thuật và đầu tư thâm canh đã tăng năng suất một số cây trồng chính hàng năm, cụ thể  lúa nước 45,5 tạ/ha (tăng 4,5 tạ/ha so với năm 2016), sắn bình quân đạt 160 tạ/ha (tăng 28 tạ/ha so với năm 2016), các cây ngô lai rau màu tăng nhẹ về năng suất.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành thương mại – dịch vụ đạt 20%/năm, tăng so với mục tiêu Đại hội đề ra. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2020 đạt 3308,9 tỷ đồng tăng 2,7 lần so với năm 2015.

 Phát triển các hệ thống phân phối, thị trường hàng hóa trên địa bàn, đặc biệt là khu vực vùng sâu vùng xa ngày càng thuận tiện và đa dạng các mặt hàng hóa trên thị trường phong phú, đa dạng, cung ứng kịp thời cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trên địa bàn. Nhất là khi phát triển các chợ nông thôn ở các xã (xã Ia O và Ia Yok).

thu ngân sách về tổng thể cơ bản đạt được dự toán giao.Nền kinh tế trong tỉnh, huyện tiếp tục ổn định. Cơ chế chính sách thuế ổn định. Tập trung quản lý kịp thời các nguồn thu phát sinh như cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền thuê đất và thu qua hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đẩy mạnh công tác thu hồi và xử lý nợ đọng thuế và thanh kiểm tra theo kế hoạch đề ra.

Số thu trên địa bàn giai đoạn trung bình năm đạt 529,6 tỷ đồng và vượt kế hoạch đề ra (NQ > 400 tỷ đồng), cụ thể năm 2016 thu đạt 555 tỷ đồng; năm 2019 thu 479 tỷ đồng. Tập trung các nguồn lực có trọng tâm, trọng điểm, lồng ghép nhiều nguồn vốn, nhiều chương trình làm cho bộ mặt nông thôn có sự thay đổi rõ rệt, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên, hệ thống chính trị được củng cố vững mạnh, an ninh nông thôn được bảo đảm, đến cuối năm 2020 có 06 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 100% chỉ tiêu Nghị quyết; tổng số tiêu chí đạt được là 180 tiêu chí, bình quân số tiêu chí đạt được trên xã là 15 tiêu chí/xã; có 19 làng nông thôn mới. Các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư xây dựng. Đến nay, 100% số xã có đường giao thông ô tô đi được đến tận thôn, làng, 100% số thôn, làng có điện lưới quốc gia, 100% số hộ sử dụng điện, 100% số xã có trạm y tế hoặc cơ sở khám và điều trị, 100% trường lớp học và nhà ở giáo viên được xây dựng kiên cố, tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 50% trong năm 2019, năm 2020 là 55%. Trong 5 năm qua, đã giải quyết việc làm cho 9.329 lao động, đạt 103,6% kế hoạch. Công tác giảm nghèo bền vững được huyện chỉ đạo tích cực; năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí đa chiều) giảm xuống còn 3,14% (giảm 11,5%) mức giảm tỷ lệ hộ nghèo trung bình là 1,9%/năm (vượt 0,8% so Nghị quyết). Đến nay, trên địa bàn huyện không còn hộ gia đình chính sách, người có công nghèo. Mạng lưới viễn thông được đầu tư mở rộng với các trạm thu phát sóng BTS phủ sóng trên khắp địa bàn đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của nhân dân.
 Lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng đạt nhiều kết quả quan trọng. toàn huyện có 50 đơn vị trường học (47 Trường mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở và 03 Trường THPT), giảm 05 trường so với năm 2015 (do thực hiện việc sáp nhập) với trên 26.500 học sinh; tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến lớp cao (Tỷ lệ huy động trẻ em đi học ở lứa tuổi mẫu giáo đạt 94,1%; Tiểu học đạt 99,7%, tăng 1,7% Nghị quyết. Trung học cơ sở đạt 98,9%); tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia và thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng tăng hàng năm; cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư từng bước đáp ứng yêu cầu dạy và học ở các cấp học, giai đoạn 2016 – 2020 trên địa bàn huyện có 100% số xã, thị trấn hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở và đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Công nhận mới 9 trường học đạt chuẩn, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 28 trường. Công tác xã hội hóa trong giáo dục mầm non được đẩy mạnh. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đủ liều năm 2016 đạt 95%, ước năm 2020 đạt 96%; Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng năm 2015 là 17% đến năm 2020 giảm xuống còn 14,6%. Cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh được đầu tư xây dựng; đội ngũ y, bác sĩ ngày càng nâng cao về năng lực chuyên môn và trách nhiệm nghề nghiệp; Đến nay trên địa bàn huyện có 100% xã, thị trấn có bác sỹ (tăng 30,8% so với đầu nhiệm kỳ); có 13/13 xã, thị trấn có trạm y tế xã, y tế thôn, làng. Chính sách về bảo hiểm Y tế tiếp tục được quan tâm, thực hiện, nhất là công tác hỗ trợ về chi phí, khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế của người dân tăng dần qua các năm: Năm 2016 tỷ lệ tham gia BHYT là 81,52%, năm 2017 là 84,83%, năm 2018 là 89,13%, năm 2019 là 90,45% và dự ước năm 2020 đạt 92,8%.  Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được duy trì thường xuyên, có hiệu quả. Tỷ lệ tăng dân số giảm dần qua các năm(năm 2015 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,48 %, năm 2020 giảm xuống còn 1,43%), dân số trung bình toàn huyện năm 2020 là 105.350 người. Công tác giảm nghèo bền vững được huyện chỉ đạo tích cực; năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí đa chiều) giảm xuống còn 3,14% (giảm 11,5%) mức giảm tỷ lệ hộ nghèo trung bình là 1,9%/năm (vượt 0,8% so Nghị quyết); công tác quốc phòng - an ninh có những chuyển biến quan trọng theo hướng tích cực, cơ bản được giữ vững ổn định; quan hệ đối ngoại biên giới với huyện Đôn Mia - Campuchia được tăng cường.
Phát huy những kết quả đạt được, phương hướng, mục tiêu chủ yếu giai đoạn 2015-2020 là: Khai thác tiềm năng lợi thế, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đưa nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và bền vững. Giữ vững an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; cải thiện rõ nét đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

c390969e-526b-4fa3-a896-59b17a1c4cb2.png